Theo tìm hiểu của phóng viên Thời báo Doanh nhân, hiện nay trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có hai quy hoạch thuỷ điện với 22 dự án do Bộ Công thương phê duyệt: Quy hoạch thuỷ điện bậc thang sông Mã và quy hoạch thuỷ điện nhỏ có tổng công suất 832MW. Trong đó trên Mã có 7 dự án gồm: Thủy điện Trung Sơn (260MW), Thành Sơn (30MW), Hồi Xuân (102MW), Bá Thước I (60MW), Bá Thước II (80MW), Cẩm Thủy I (28,6MW), Cẩm Thủy II (32MW), sông Chu có 4 dự án: Cửa Đạt (97MW), Xuân Minh (15MW), Bái Thượng (6MW) và Dốc Cáy (15MW).
Các sông suối khác: tuyến sông Lò có 03 dự án gồm: Thủy điện Trung Xuân, thủy điện Sơn Lư, thủy điện Tam Thanh; trên sông Luồng có 05 dự án gồm: thủy điện bản Khà, Mường Mìn, thủy điện Sơn Điện, thủy điện Nam Động 1 và Nam Động 2; tuyến sông Âm có 01 dự án thủy điện sông Âm; tuyến sông Khao có 01 dự án; suối Hối có 01 dự án thủy điện Trí Nang.
Trong 22 dự án được quy hoạch, đến nay có 13 dự án đã triển khai đầu tư, gồm: 06 dự án đã hoàn thành xong và phát điện, đang thi công 07 dự án đến nay đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng, dự kiến phát điện trong năm 2018 và 09 dự án đang lập hồ sơ trình xem xét chấp thuận.
Trước đó tại phiên chất vấn kỳ họp thứ 6 HĐND tỉnh Thanh Hóa, nhiều đại biểu cho rằng, quy hoạch mạng lưới thủy điện ở Thanh Hóa đang tồn tại nhiều bất cập, như khoảng cách quá gần, thu hồi đất với số lượng lớn vượt quá quy định của Bộ Công Thương; vấn đề môi trường, tái định cư cho người dân vùng bị ảnh hưởng chưa được quan tâm đúng mức.
Theo báo cáo về Kết quả khảo sát việc quy hoạch, đầu tư xây dựng các khu tái định cư và tình hình đời sống, sinh kế của người dân sau tái định cư bị ảnh hưởng bởi các công trình thủy điện ở miền núi của Ban Dân tộc HĐND tỉnh Thanh Hóa khảo sát cho hay: Hiện tại trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã có 13 dự án thủy điện đã triển khai đầu tư, trong đó có 04 dự án (thủy điện Trung Sơn; Hồi Xuân; Bá Thước 1 và Bá Thước 2) phải bố trí tái định cư tập trung, các dự án còn lại do số lượng di dân không nhiều, nên hộ dân tự di chuyển hoặc bố trí xen ghép. Các huyện bố trí tái định cư gồm: Mường Lát, Quan Hóa, Bá Thước đã có phương án quy hoạch, xây dựng 06 khu, 13 điểm TĐC tập trung, tại 07 xã của 03 huyện.
Tổng diện tích đất bị ảnh hưởng đã thu hồi và bồi thường là: 1.849,3 ha, trong đó: đất ở là 21,0 ha, đất nông nghiệp 495,6 ha, đất lâm nghiệp 1.259,6 ha, đất khác 74 ha. Tổng diện tích đất các khu tái định cư 75,5 ha; tổng số hộ dân phải di chuyển TĐC là 930 hộ (trong đó TĐC tập trung là 432 hộ), chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa.
Công tác quy hoạch các khu, điểm tái định cư (TĐC) các dự án thủy điện chưa tính hết các yếu tố sinh kế bền vững (mới chỉ có thủy điện Trung Sơn là có dự án sinh kế sau TĐC cho hộ dân), quan tâm chưa nhiều tới phong tục, tập quán sản xuất, sinh hoạt của cộng đồng dân tộc thiểu số. Có nơi quy hoạch chưa hợp lý, bố trí nơi ở trên đỉnh núi cao, mặt bằng không đều, xa nơi canh tác, thiếu nguồn nước sinh hoạt, chất lượng đất kém, nguy cơ sạt lở cao như ở điểm TĐC Keo Đắm, huyện Quan Hóa, bản Lìn xã Trung Lý, huyện Mường Lát.
Việc lựa chọn khu vực bố trí khu, điểm tái định cư ở một số nơi chưa phù hợp; xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững. Không những thế, tiến độ xây dựng một số điểm tái định cư quá chậm như: Thuỷ điện Hồi Xuân, triển khai xây dựng gần 10 năm nhưng đến nay chưa bàn giao được mặt bằng khu tái định cư bản Sa Lắng. Một số công trình đầu tư không được khảo sát, thiết kế không phù hợp với địa hình, địa chất, giám sát thiếu chặt chẽ nên chất lượng, hiệu quả thấp, gây bức xúc trong nhân dân.
Cụ thể, công trình nước sinh hoạt ở bản Nàng 1, xã Mường Lý; bản Po Cùng, Kéo Đắm, xã Trung Sơn do ống kẽm nhỏ, hoen gỉ, thiết kế kỹ thuật không phù hợp, cuối nguồn các hộ không có nước dùng. Về quy hoạch, xây dựng nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số như nhà ở của dân cư đô thị, không phù hợp với phong tục, tập quán; đất đai cằn cỗi, độ dốc lớn; thiếu đất canh tác và nước tưới nên việc tổ chức sản xuất và đảm bảo vệ sinh môi trường rất khó khăn.
Việc khảo sát, đánh giá mức độ, phạm vi ảnh hưởng của một số dự án thủy điện chưa chính xác, đề xuất quy hoạch, bố trí dân cư chưa phù hợp, thiếu tính bền vững; một số hộ nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của dự án được duyệt, nhưng khi xây dựng công trình và tích nước vẫn bị ngập nước như thôn Chiềng Ai, xã Hạ Trung, Bá Thước.
Cũng theo Báo cáo số 735/BC-HĐND ngày 04 tháng 12 năm 2018 do ông Nguyễn Văn Thành – Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Thanh Hóa ký nêu rõ: Công tác kiểm kê, áp giá đền bù giải phóng mặt bằng, lập, thẩm định và phê duyệt các phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư còn hạn chế. Cá biệt một số nơi còn để xảy ra sai sót trong quá trình kiểm đếm, đánh giá mức thiệt hại bồi thường như ở Mường Lát. Chưa bố trí kinh phí hỗ trợ cho các hộ mất đất sản xuất nông nghiệp. Việc chi trả tiền bồi thường bồi thường GPMB và kinh phí thực hiện các chính sách, chế độ cho dân còn chậm như dự án thủy điện Hồi Xuân (còn 167 hộ chưa nhận tiền bồi thường). Việc thực hiện chính sách đền bù, tái định cư còn nhiều bất cập, mới chỉ tính đến thiệt hại trực tiếp, chưa tính tới thiệt hại gián tiếp cho các hộ bị ảnh hưởng. Thậm chí trong cùng một huyện, mỗi dự án di dân TĐC thực hiện một chế độ, chính sách đề bù, GPMB và hỗ trợ TĐC khác nhau, có sự thiếu công bằng, gây khó khăn cho việc thực hiện ở cơ sở. Một số dự án còn xảy ra khiếu nại về định mực, hình thức hỗ trợ, đền bù như ở Mường Lát, Cẩm Thủy, Bá Thước.
Tác giả: Văn Huy
Nguồn tin: Báo Doanh nghiệp Việt Nam