Giáo dục

Vời vợi ký ức Tết xa nhà của “người mẹ” gần 30 năm “cắm bản”

Dù có những giây phút yếu lòng, tư tưởng lung lay muốn bỏ nghề về quê để được gần gia đình, nhưng, chính đôi mắt thơ ngây “khát chữ” của học trò đã tiếp thêm sức mạnh cho “người mẹ” ấy gắn bó gần 30 năm với sự nghiệp “trồng người” ở những ngôi trường vùng cao khó khăn bậc nhất.

Những ngày đầu tiên “ươm mầm” trên đá

Trong chuyến công tác ngay trước thềm năm mới, chúng tôi đã đặt chân đến một số điểm trường nằm điểm xuyết trên các triền đồi, nơi có những người thầy, người cô đã hàng chục năm miệt mài “gùi chữ lên non”.

Ở Trường Phổ thông dân tộc bán trú tiểu học Nậm Chảy (huyện Mường Khương, Lào Cai), chúng tôi gặp cô giáo Đào Thị Chung (SN 1967) trong lúc đang hướng dẫn học sinh bán trú dọn dẹp sau bữa ăn trưa. Cái dáng người nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn của người mẹ hiền đã ngoài 50, đang hối hả bên những đứa con thơ, hết cầm tay đứa này rồi lại tỉ mỉ chỉ dẫn đứa khác, thật là một khung cảnh rất ấm áp.

Nghe các thầy cô trong trường giới thiệu, chúng tôi được biết, cô giáo Chung gần như đã trở thành “thổ địa” trên khắp nẻo núi rừng ở huyện biên giới Mường Khương, với gần 30 năm “ươm mầm” trên đá.

Sau khi học sinh các lớp đã vào giấc ngủ trưa, chúng tôi tranh thủ bắt chuyện với cô giáo Đào Thị Chung. Trong ánh mắt của nữ giáo viên, một khoảng trời ký ức như đang hiện hữu: “Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng quê Vụ Bản (Nam Định), nhưng cơ duyên thế nào lại trở thành cô giáo vùng cao, rồi nhận nhiệm vụ ở tít tận những xã xa xôi nhất của tỉnh Lào Cai. Tôi chính thức bước vào nghề giáo từ tháng 9/1994 đến nay, cũng được phân công qua một số môi trường khác nhau, nhưng gắn bó lâu nhất chính là ở ngôi trường này, tính đến nay cũng đã tròn 20 năm.

Khi tôi mới lên đây, thứ gì cũng khó khăn, thiếu thốn. Thuở ấy, đường từ ngoài thị trấn vào các điểm trường chỉ là đường mòn của ngựa đi, chúng tôi chỉ có cách di chuyển duy nhất đó là đi bộ. Tôi nhớ như in cái cảnh vừa đi vừa mò mẫm, hai bên cây cối um tùm, hôm nào trời mưa, thì xác định muốn vào đến điểm trường là phải đi ủng - chúng tôi hay đùa với nhau là những “đôi bốt nhựa”… Không những thế, còn phải hết sức lưu ý để tránh vắt nhảy lên người.

Bà con trong thôn bản cũng quý thầy cô giáo, nhưng ngặt một nỗi, vì còn mong các con phụ giúp việc nhà nên không muốn con em đi học. Thế là đều đặn mỗi tối, chúng tôi theo chân công an viên hoặc trưởng thôn đi vận động học sinh ra lớp. Trên hành trình đó, chúng tôi cũng gặp không ít chuyện dở khóc dở cười, như cảnh thầy cô giáo ôm học sinh mà phụ huynh thì túm áo giữ lại, giằng co, tranh giành… Có phụ huynh muốn con nghỉ học để chăn trâu, có phụ huynh lại muốn con ở nhà bế em, nên chúng tôi mới gợi ý, học sinh nào bận chăm em thì có thể cõng em cùng lên lớp, còn học sinh nào phải chăn trâu thì cột lại rồi cắt cỏ cho ăn. Thế mà có những hôm, cột lỏng, trâu đi mất, đang dạy dở tiết thì phụ huynh chạy đến bắt đền. Cuối cùng, thầy trò tán loạn đổ đi tìm trâu… Đó là những kỷ niệm có lẽ không bao giờ có thể quên được”.

“Ngày đó cũng chưa có điện, nên chúng tôi chủ yếu thắp đèn dầu để soạn bài, còn đun nấu thì hoàn toàn dùng bếp củi. Thức ăn cũng phải chuẩn bị sẵn, ăn từ đầu tuần đến cuối tuần, chủ yếu là lạc, cá khô… Nếu tuần nào trời mưa lớn, sạt lở, không kịp về trung tâm huyện thì xác định tuần tới sẽ… nhịn đói nhiều. May thay, mỗi khi bà con săn bắt được thức ăn gì, tuy không có nhiều, cũng đều san sẻ với chúng tôi, rất ấm áp…

Nước ở đây cũng thường rất khan hiếm, đặc biệt vào mùa Đông, có học sinh thương các cô, chủ động đi xách nước bằng ống tre để cô có nước sinh hoạt. Thấy mà thương! Ở giữa rừng núi, buồn nhất là những lúc chuẩn bị đi ngủ, chỉ có tiếng côn trùng râm ran, tiếng gió xào xạc, mà nhất là vào những đêm mưa thì nỗi buồn càng sâu sắc hơn”, cô Chung nhớ lại.

Cô giáo Đào Thị Chung vẫn luôn tận tụy với học trò.


Ký ức về một Tết buồn xa mẹ

Mặc dù xa quê, song mỗi năm, cô giáo Đào Thị Chung vẫn được tạo điều kiện để về quê ăn Tết với gia đình. Chỉ có duy nhất một lần, cô phải đón Tết xa nhà trong khi lòng vẫn bộn bề nhiều tâm trạng, thậm chí, muốn… bỏ nghề.

Hít một hơi thật sâu, cô kể: “Những năm tháng đó, điện còn chưa có, nói gì đến điện thoại di động, chúng tôi muốn liên lạc về với gia đình thì chỉ có thể viết thư tay. Mà gửi thư thì cũng mất vài ngày, thậm chí, cả tuần liền vẫn chưa đến nơi, thế nên, tin tức nhiều khi bị trễ.

Tôi còn nhớ, đó là khoảng cuối năm 2005. Buổi sáng hôm ấy, khi tôi đang đứng lớp, có người từ ủy ban xã chạy xuống, báo tôi có cuộc gọi khẩn cấp qua điện thoại. Sẵn đang nóng ruột, tôi vội vã chạy theo, rồi nhận được tin mẹ mất. Lúc đó, tôi chỉ biết khóc thôi, không biết làm sao cả…

Mẹ lâm bệnh trước đó khoảng 3 tháng, em tôi cũng đã viết thư, nhưng vẫn động viên chị yên tâm công tác, ở nhà đã có mọi người lo, khi nào bần cùng quá thì mới gọi cho tôi. Khi tôi về đến nhà, em tôi nói, mấy ngày trước, mẹ trở nặng, cũng muốn báo tin để chị về gặp mẹ lần cuối, nhưng điện mãi mà không gặp ai… Đến khi mẹ mất, mới liên lạc được. 2 ngày sau, tôi về đến nhà, chỉ kịp đưa mẹ ra đồng chứ không nhìn thấy mặt mẹ lần cuối. Tôi gặp mẹ tôi vào Tết năm trước, khi mẹ mất là 26/11 Âm lịch, vậy là gần một năm tôi không gặp lại mẹ… Nghĩ đến mẹ, tôi càng không kìm nổi nước mắt”.

“Xong xuôi công việc của mẹ, bố tôi khi ấy đã hơn 70 tuổi, động viên tôi trở lại với học sinh. Thú thực, trong lòng tôi khi ấy đang bộn bề rất nhiều suy nghĩ. Vừa là nỗi đau mất mát người thân, vừa chứng kiến sự đổi thay của quê nhà, trong khi nơi mình đang dạy học lại khó khăn chồng chất… tôi đã có lúc lung lay, nghĩ liệu mình có trụ được không, rồi thậm chí muốn bỏ dạy, ở nhà.

Nhưng rồi, một bên là bố động viên, một bên là sự chờ đợi của đồng nghiệp và những lời gửi gắm của bà con trước lúc tôi rời bản: “Cô giáo về rồi lại lên nhé!”…

Bỗng nhiên, tôi thấy là nơi mình đặt chân đến đang rất cần mình, nhất là các em học sinh, nếu bây giờ mình không lên lại nữa, thì không biết các em sẽ ra sao? Cuối cùng, tôi quyết định chuẩn bị tư trang để tiếp tục trở lại với lớp học vùng cao”, cô Chung khẽ nở một nụ cười trìu mến.

Vậy là chính những tình cảm nồng hậu của bà con dân bản, chính những ánh mắt thơ ngây “khát chữ” của học trò đã tiếp thêm động lực cho những người kỹ sư tâm hồn như cô giáo Đào Thị Chung có thêm quyết tâm, ở lại gắn bó và tiếp tục “gieo chữ” nơi rẻo cao.

“Ở vùng sâu, vùng xa như thế này, ngay cả đến bây giờ, chuyện học sinh tặng quà cho giáo viên nhân các ngày lễ cũng rất hiếm hoi. Nhưng tôi nhớ nhất kỷ niệm hồi năm 1999, khi tôi chuẩn bị nghỉ, về quê đón Tết với bố mẹ, đêm ấy, tôi nghe thấy có tiếng gì đó sột soạt ở vách tường, trong bụng thầm nghĩ hay có con gì bò vào nhà… Đến sáng, tỉnh giấc, tôi thấy có hai gói kẹo ‘cởi trần’ được bọc cẩn thận, kèm theo một tờ giấy có ghi: “Chúc cô về may mắn!”. Thì ra, biết cô giáo chuẩn bị về quê, các em muốn gửi quà cho cô, nhưng còn lẽn lẽn, xấu hổ, nên mới lựa lúc đêm khuya, bí mật đẩy gói kẹo vào nhà. Nhận được món quà Tết ý nghĩa như vậy, tôi chỉ muốn bật khóc. Đó là món quà đầu tiên mà tôi vô cùng trân quý, đến tận bây giờ”, cô giáo Đào Thị Chung tâm sự.


Tác giả: Tuệ Linh

Nguồn tin: nguoiduatin.vn

  Từ khóa: Tết xa nhà , Cô giáo

BÀI MỚI ĐĂNG

TOP
ok