UBND huyện Hoằng Hóa đã đầu tư xây dựng lò đốt rác thải sinh hoạt tại xã Hoằng Trường để xử lý rác thải cho khu du lịch Hải Tiến và các xã phụ cận với công suất 14 tấn/ngày. Thời gian qua, do nguồn rác thải ở các xã, thị trấn tương đối lớn, công suất đốt của nhà máy xử lý rác Hoằng Trường chưa đảm bảo khiến lượng rác thải luôn trong tình trạng ứ đọng, gây ô nhiễm và ảnh hưởng đến toàn bộ các hộ dân xung quanh.
Rác thải luôn trong tình trạng ứ đọng, tràn lan xung quang khu vực nhà máy. |
Sống gần với bãi rác, bà Lê Thị Tùng sống ở thôn 1, xã Hoằng Trường bức xúc: ruồi muỗi hàng ngày bu đen khắp nhà, đặc biệt ở khu vực bếp ăn. Do ở gần khu xử lý rác thải ngoài việc phải ngửi mùi hôi thối từ rác bốc lên, còn phải ngửi thứ khói đốt khét, khó chịu. Các hộ dân ở gần khu vực bãi rác đã nhiều lần làm đơn gửi lên UBND xã Hoằng Trường nhưng vẫn chưa được giải quyết.
Theo quan sát của PV, nhà máy xử lý rác Hoằng Trường cách 7 hộ dân chỉ bằng một bức tường được xây thấp, đứng từ phía ngoài dễ dàng quan sát thấy nhiều chỗ rác thải chất cao hơn cả tường ngăn cách. Có mặt trong nhà máy, điều đầu tiên tôi cảm nhận được, đó là mùi hôi thối nồng nặc bốc lên từ các bãi rác tập kết đã lâu ngày xen lẫn với mùi khói khét đến khó thở từ ống khói đang ngày đêm xả thải trực tiếp ra không khí.
Người dân đang chỉ về hướng những ngôi nhà gần đó. |
Có nhà và ruộng gần nhà máy, bà Lê cho biết: Nhiều hôm có gió Tây mùi hôi nồng nặc từ nhà máy bốc ra tận đường lớn, cả nhà tôi không thể ngủ được, còn các hộ sống gần hơn họ không chịu nổi nên ngày nào cũng rủ nhau lên UBND xã để kiến nghị, nhưng mãi chưa được giải quyết.
Một số hộ dân phản ánh thêm: Nhiều bữa mùi hôi thối, ruồi nhặng nhiều quá khiến chúng tôi ăn không ngon, thậm chí là phải mang cơm đi chỗ khác để ăn, buổi trưa thì không thể nằm nghỉ ngơi được do mùi khói khét cứ bay thẳng vào nhà. Nhiều lúc muốn đưa các cháu nhỏ về nhà, nhưng sợ ô nhiễm nên đành thôi.
Ruồi muỗi bu đen rồi gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân. |
Ông Bùi Thế Thùy, Giám đốc nhà máy xử lý rác Hoằng Trường khẳng định: Do vừa tết xong nên nhà máy luôn trong tình trạng quá tải, trung bình mỗi ngày bãi rác nhận gần 30 tấn rác, trong khi đó chỉ xử lý được 14 tấn/ngày, vậy mỗi ngày sẽ tồn đọng lại 16 tấn. Chúng tôi đang cùng UBND xã Hoằng Trường kiến nghị xin chi phí để nâng cấp công suất đốt rác cho nhà máy. Theo như tính toán khoảng 20 ngày nữa thì nhà máy sẽ chấm dứt tình trạng tồn đọng rác thải.
Trao đổi với PV về vấn đề này, ông Lê Phạm Thảo, Phó Chủ tịch UBND xã Hoằng Trường xác nhận: Chúng tôi thừa nhận những sai phạm về tình trạng rác quá tải và ống xả thải của nhà máy xử lý rác thải Hoằng Trường do lượng rác thu về lớn hơn với lượng đốt, vì vậy UBND đã cử cán bộ xuống kiểm tra nhưng nhà máy luôn trong tình trạng đóng cửa. Thời gian vừa qua chúng tôi có nhận được nhiều đơn thư phản ánh của người dân sống xung quanh khu vực nhà máy, UBND xã sẽ xem xét kiến nghị với huyện sẽ làm khu tái định cư cho những hộ dân gần đó, đồng thời đề nghị nhà máy xử lý rác thải theo đúng quy chuẩn, tránh tình trạng ô nhiễm.
Ống khói đang trực tiếp xả thải ra môi trường. |
Được biết phí rác thải được thu theo tháng của mỗi hộ dân với giá 8.000đ/người, môi trường đang ô nhiễm trong khi đó vẫn chưa có biện pháp hiệu quả nào để khắc phục. Thiết nghĩ các cơ quan chức năng huyện Hoằng Hóa can thiệp xử lý kịp thời để ngăn chặn triệt để tình trạng ôi nhiễm từ bãi rác khổng lồ xã Hoằng Trường.
Căn cứ Phụ lục 01 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT – BKHCNMT – BXD về khoảng cách thích hợp khi lựa chọn bãi chôn lấp như sau: Theo Phụ lục trên, đối với khu dân cư là khu đô thị ở các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ…khoảng cách tổi thiểu của bãi chôn lấp chất thải rắn nhỏ và vừa là 3000m-5000m; khoảng cách tối thiểu của bãi chôn lấp chất thải rắn lớn hơn là 5000-15000m; khoảng cách tối thiểu của bãi chôn lấp chất thải rắn rất lớn là 15000-30000m. Áp dụng theo QCVN 07:2010/BXD trong chương 9 mục 9.6.3 có quy định: Xử lý, chế biến chất thải rắn sinh hoạt thành phần vi sinh hoặc chế biến thành nguyên liệu đốt như sau:
|
Tác giả: Đức Duy
Nguồn tin: Báo Tài nguyên và Môi trường