|
Mới đây, Bộ Công an vừa hoàn thành dự thảo Thông tư quy định về cấp, thu hồi đăng ký, biển số xe cơ giới với 4 chương 38 điều để lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Theo đó, Thông tư này quy định về hồ sơ, thủ tục cấp, thu hồi đăng ký, biển số xe cơ giới được quy định trong Luật Giao thông đường bộ, bao gồm: đăng ký xe lần đầu; đăng ký sang tên, di chuyển xe; đăng ký xe tạm thời; cấp đổi, cấp lại; thu hồi giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe (sau đây gọi chung là đăng ký xe).
Nguyên tắc chung về đăng ký xe
Xe cơ giới có nguồn gốc hợp pháp, bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường thì được đăng ký, cấp một bộ biển số xe theo quy định tại Thông tư này. Chủ xe là tổ chức, cá nhân có trụ sở, nơi cư trú (nơi đăng ký thường trú, tạm trú) tại địa phương nào thì đăng ký xe tại cơ quan đăng ký xe thuộc địa phương đó. Biển số xe được cấp và quản lý theo mã định danh của chủ xe (sau đây gọi là biển số định danh); đối với chủ xe là người Việt Nam thì biển số xe được quản lý theo mã định danh cá nhân; đối với người nước ngoài thì biển số xe được quản lý theo mã định danh của người nước ngoài; đối với tổ chức thì biển số xe được quản lý theo mã định danh của tổ chức hoặc mã số thuế.
Trường hợp xe hết niên hạn sử dụng, hư hỏng hoặc chuyển quyền sở hữu xe thì biển số xe đó được cơ quan đăng ký xe thu hồi và cấp lại khi chủ xe đăng ký xe khác thuộc sở hữu của mình; Số biển số định danh này được giữ lại cho chủ xe trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận thu hồi đăng ký, biển số (sau đây gọi chung là giấy chứng nhận thu hồi); quá thời hạn trên nếu chủ xe không đăng ký, cơ quan đăng ký xe sẽ thu hồi và đưa vào kho số để thực hiện đăng ký xe theo quy định.
Trường hợp chủ xe chuyển trụ sở, nơi cư trú đi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác (sau đây gọi chung là di chuyển nguyên chủ) thì được giữ lại biển số xe đó (không phải đổi biển số xe).
Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên thì được đăng ký xe; trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi thì phải được cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Mọi thủ tục đăng ký xe đều phải được kê khai trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, Cổng Dịch vụ công Bộ Công an (sau đây gọi chung là Cổng Dịch vụ công). Sau khi kê khai thành công, Cổng Dịch vụ công gửi tin nhắn thông báo mã hồ sơ để chủ xe làm thủ tục đăng ký xe tại cơ quan đăng ký xe có thẩm quyền.
Trường hợp không thực hiện được trên Cổng Dịch vụ công, do không có dữ liệu điện tử hoặc lỗi kỹ thuật, thì chủ xe kê khai làm thủ tục trực tiếp tại cơ quan đăng ký xe.
Dữ liệu điện tử các chứng từ trong thành phần hồ sơ đăng ký xe do Hệ thống đăng ký, quản lý xe (sau đây gọi chung là Hệ thống đăng ký xe) tiếp nhận từ Cổng Dịch vụ công hoặc cơ sở dữ liệu của các Bộ, ngành hoặc dữ liệu điện tử quét (scan) các chứng từ trong thành phần hồ sơ, bản chà số máy, số khung kết quả giải quyết thủ tục hành chính từ văn bản giấy có chữ ký số của cán bộ làm thủ tục hoặc cơ quan đăng ký xe (sau đây gọi chung là số hóa hồ sơ) có giá trị pháp lý như văn bản giấy.
Tổ chức, cá nhân trúng đấu giá biển số xe ô tô được lựa chọn đăng ký, cấp biển số xe ô tô trúng đấu giá tại Phòng Cảnh sát giao thông nơi chủ xe có trụ sở, cư trú hoặc tại Phòng Cảnh sát giao thông quản lý biển số xe ô tô trúng đấu giá đó.
Thời hạn cấp đăng ký, biển số xe
Bên cạnh đó, Dự thảo cũng quy định rõ về thời hạn cấp đăng ký, biển số xe.
Theo đó, thời hạn cấp đăng ký, biển số xe được quy định tại Điều 7 với những nội dung đáng chú ý sau: Cấp lần đầu, cấp đổi giấy chứng nhận đăng ký xe: không quá 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; Cấp lại giấy chứng nhận đăng ký xe: 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; Cấp biển số lần đầu: cấp ngay sau khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký xe hợp lệ; cấp đổi, cấp lại biển số xe; cấp biển số ô tô trúng đấu giá, cấp lại biển số định danh: không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ...
Tại Điều 15 quy định về trường hợp cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe như sau: Trường hợp cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận đăng ký xe: Xe cải tạo, xe thay đổi màu sơn; gia hạn giấy chứng nhận đăng ký xe; giấy chứng nhận đăng ký xe bị hỏng, mờ, rách hoặc bị mất hoặc thay đổi các thông tin của chủ xe (tên chủ xe, số định danh cá nhân, địa chỉ); xe đã đăng ký, cấp biển số nền màu trắng, chữ và số màu đen sang biển số nền màu vàng, chữ và số màu đen (xe hoạt động kinh doanh vận tải bằng ô tô) và ngược lại hoặc chủ xe có nhu cầu đổi giấy chứng nhận đăng ký xe cũ sang giấy chứng nhận đăng ký xe theo quy định tại Thông tư này.
Trường hợp cấp đổi, cấp lại biển số xe: Biển số bị hỏng, mờ, gẫy, bị mất; xe đã đăng ký, cấp biển số nền màu trắng, chữ và số màu đen sang biển số nền màu vàng, chữ và số màu đen và ngược lại hoặc chủ xe có nhu cầu đổi biển số ngắn sang biển số dài và ngược lại hoặc đổi biển cũ sang biển số theo quy định tại Thông tư này.
Điều 22 quy định về trường hợp phải thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe, cụ thể là những trường hợp sau: Xe hỏng không sử dụng được, xe bị phá hủy do nguyên nhân khách quan; Xe hết niên hạn sử dụng hoặc không được phép lưu hành theo quy định của pháp luật; Xe bị mất cắp, chiếm đoạt không tìm được, chủ xe đề nghị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký xe; Xe miễn thuế nhập khẩu hoặc xe tạm nhập của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tái xuất; Xe đăng ký tại các khu kinh tế - thương mại đặc biệt hoặc khu kinh tế cửa khẩu quốc tế theo quy định của Chính phủ khi tái xuất hoặc chuyển nhượng vào Việt Nam; Xe đăng ký sang tên, di chuyển đi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác; Xe tháo khung để đăng ký cho xe khác; Xe đã đăng ký nhưng phát hiện hồ sơ xe giả hoặc xe có kết luận của cơ quan có thẩm quyền số máy, số khung bị cắt hàn, đục lại, tẩy xóa hoặc cấp biển số không đúng quy định.
Tác giả: Tuệ Minh
Nguồn tin: nguoiduatin.vn