1-"Chưa có một nước nào đào tạo tiến sĩ rẻ như ở Việt Nam". Đây là ý kiến của Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Bùi Văn Ga trong buổi tọa đàm “Nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ” do Bộ GD& ĐT tổ chức cách đây ít ngày [1], muốn nhấn mạnh đến vấn đề kinh phí đào tạo thấp (căn cứ vào mức học phí theo quy định của Nhà nước, ước tính khoảng 15.000.000đ/năm), là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo TS ở Việt Nam.
Nhận định của ông Bùi Văn Ga không sai. Bởi nói cho cùng muốn lên mặt trăng nhất định phải có phi thuyền chứ không thể bám vào rễ cây đa như chú Cuội trong truyền thuyết.
Tuy vậy, ý kiến trên của ông Bùi Văn Ga lại vô tình gây ra những tranh luận trái chiều. Có người cho rằng, chi phí đào tạo TS ở Việt Nam không hề rẻ chút nào. Ngoài mức học phí chung theo quy định của Nhà nước, số tiền họ phải bỏ ra còn lớn hơn rất nhiều. Đó là tiền gì, vì sao phải bỏ ra? Câu hỏi này tôi nghĩ không cần phải nói ra vì mọi người chắc cũng đã biết, nhất là “những người trong cuộc”. Nói khác đi, vấn đề lớn nhất trong việc đào tạo TS ở Việt Nam hiện nay trong nhiều trường hợp thuộc về mối quan hệ giữa khoa học và đạo đức xã hội, đạo đức của những người làm khoa học.
Một vấn đề khác, theo Bộ GD &ĐT, có không ít những người học TS là những quan chức trong bộ máy hành chính Nhà nước chưa một ngày làm nghiên cứu hay tham gia giảng dạy. Mục đích và “động cơ” học tập của những người này đương nhiên không phải để thành nhà khoa học. Thế nhưng cuối cùng họ được công nhận TS, thậm chí sau đó còn được phong GS, PGS. Chất lượng những Gs, TS kiểu này chắc chắn ảnh hưởng đến đội ngũ những nhà khoa học chân chính khác. Giáo sư Hoàng Xuân Sính gọi là “hiện tượng kì dị” ở Việt Nam [2].
2. Được biết, để nâng cao chất lượng đào tạo TS trong nước, sắp tới đây Bộ GD&ĐT sẽ ban hành quy chế trong đó bắt buộc NCS muốn bảo vệ luận án TS phải có bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế [3]. Cá nhân tôi cho rằng đây chẳng qua chỉ là giải pháp có tính “hớt ngọn” nhất thời nếu không muốn nói là rất ảo tưởng và không thực tế. Vì sao?
Thứ nhất, vấn đề lớn nhất của GD Việt Nam hiện nay (trong đó có đào tạo TS) là người Việt tuy rất ham học nhưng phần nhiều việc học mang nặng tính đối phó. Trong khi đó tâm lý xã hội lại quá coi trọng bằng cấp. Có không ít người người xem các tấm bằng ThS, TS, các danh xưng PGS, GS như món đồ trang sức để nâng giá trị bản thân. Ví như, trong quy chế đào tạo TS hiện nay có quy định về ngoại ngữ rất khắt khe, như một “hàng rào” để kiểm soát chất lượng.
Nhưng thực tế ai dám cam đoan sắp tới đây việc quy định phải có bài trên tạp chí quốc tế trước khi bảo vệ luận án TS sẽ không đi vào vết xe đổ như quy định về “hàng rào” ngoại ngữ? Nên nhớ rằng muốn đăng bài trên tạp chí quốc tế ngoài yếu tố chuyên môn thì phải trả rất nhiều tiền? Sẽ chẳng khó khăn gì với những kẻ thừa tiền muốn có tấm bằng TS để nâng cấp bản thân, nhưng sẽ là rào cản với những nhà khoa học chân chính mà không có tiền bạc. Một sự bát nháo và “vàng thau lẫn lộn” hứa hẹn sẽ lại diễn biến phức tạp hơn?
Thứ hai, ba bài báo đăng trên tạp chí quốc tế mới được bảo vệ luận án TS ư? Nói cho cùng cũng chẳng giải quyết được gì nếu sự nghiệp nghiên khoa học của ông TS cũng… kết thúc luôn ngay sau đó? Khoa học từ thực tiễn cuộc sống mà ra và thực tiễn cũng là nơi kiểm nghiệm tính xác thực và hiệu quả nghiên cứu khoa học. Bạn bè quốc tế chỉ đánh giá và xem trọng chúng ta dựa trên thực tế về sự phát triển phồn thịnh của đất nước; sự văn minh, văn hóa.
Thế nên, thiển nghĩ việc công bố các công trình khoa học, trước mắt chỉ nên là một sự khuyến khích chứ không nên bắt buộc cứng nhắc. Việc bắt buộc chỉ nên dành cho một số đối tượng là những nhà khoa học thuộc thành phần tinh hoa đang công tác tại các trường ĐH trọng điểm quốc gia cũng như một số ngành khoa học cơ bản và mũi nhọn có đóng góp thiết thực và hiệu quả vào sự phát triển chung của toàn xã hội.
3. Tóm lại, công bố công trình trên tạp chí quốc tế là việc đương nhiên cần làm, thậm chí là làm thường xuyên trong xu thế hội nhập. Tuy nhiên, tất cả phải có lộ trình và tầm nhìn chiến lược dài hơi chứ không nên nóng vội bằng những cơ chế và chính sách xơ cứng. Nhìn vào mặt bằng chung về tình hình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam hiện nay, thiển nghĩ vấn đề cần làm trước tiên và quan trọng nhất là phải tạo môi trường thông thoáng để các nhà khoa học được tự do trong nghiên cứu, tự do học thuật, tự do theo đuổi đam mê.
Tác giả bài viết: Nguyễn Trọng Bình
Nguồn tin: