Chính vì vậy, việc động viên sức lực của “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” là điều rất cần thiết; bởi để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh, thì “... một cách tốt nhất là tổ chức thi đua. Người này thi đua với người khác. Nhà này thi đua với nhà khác. Làng này thi đua với làng khác. Ai hơn thì được nhân dân kính trọng và Chính phủ trọng thưởng”.
Ảnh tư liệu |
Việc đề xuất “thi đua yêu nước” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được nêu lên lần đầu tiên trong tác phẩm "Đời sống mới" (được Bác viết ngày 20 tháng 3 năm 1947), nhưng tinh thần, ý nghĩa của nó đã được Người nhận thức từ trước đó khá lâu. Sau chiến thắng Việt Bắc (Thu Đông 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sáng kiến về tổ chức, lãnh đạo thực hiện phong trào thi đua yêu nước để giành thắng lợi to lớn hơn. Chấp thuận đề nghị của Người, ngày 27-3-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc. Chỉ thị xác định: mục đích thi đua ái quốc lúc bấy giờ là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc chóng thành công.
Và đến ngày 11/6/1948, tại bản Là Nọn, xã Phú Bình (Định Hóa, Thái Nguyên), chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi thi đua ái quốc, chính thức phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.: “bổn phận của người Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều phải thi đua nhau: Làm cho mau. Làm cho tốt. Làm cho nhiều” để đạt được mục đích :”Diệt giặc đói/Diệt giặc dốt/Diệt giặc ngoại xâm”.
Trong văn bản này, Người nhấn mạnh phong trào thi đua yêu nước phải tiến hành một cách toàn diện: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa”, “Lực lượng của dân/Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”. Điều này xuất phát từ tính chất toàn dân, toàn diện của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tính nhân dân của phong trào thi đua yêu nước được thể hiện ở việc tổ chức cho các tầng lớp nhân dân được quyền và có nghĩa vụ đóng góp vào công việc chung của đất nước, tuỳ theo sức lực của mình:
“Các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc,
Các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn,
Đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp,
Đồng bào công nông thi đua sản xuất,
Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh,
Nhân viên Chính phủ thi đua tận tuỵ làm việc, phụng sự nhân dân,
Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng.
Nói tóm lại, ai cũng thi đua, ai cũng tham gia kháng chiến và kiến quốc".
Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời “Hịch”, đem đến cho toàn thể nhân dân ta sức mạnh và nguồn động viên to lớn, đã thôi thúc hàng triệu người dân Việt Nam yêu nước không ngại hy sinh, gian khổ, hăng hái thi đua lao động sản xuất, tham gia kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc.
Các bài nói, bài viết của Bác sau đó đã hướng dẫn phong trào thi đua gắn với từng đối tượng trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. “Tưởng lầm rằng thi đua là một công việc khác với những công việc làm hàng ngày. Thật ra, công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua”. Người nhấn mạnh: “Thi đua là một cách yêu nước thiết thực và tích cực. Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất…”. “Thi đua ái quốc nhằm ba mục đích chính: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Tức là làm cho nhân dân no, ấm, biết chữ, làm cho Tổ quốc độc lập, tự do”. (Bài nói chuyện tại Đại hội các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc ngày 1/5/1952)
Hưởng ứng Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các phong trào thi đua yêu nước đã phát triển rộng khắp các vùng miền và thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ, như: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “Bình dân học vụ”, “Hũ gạo kháng chiến”… “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”,“Sóng Duyên hải” trong sản xuất công nghiệp; “Gió Đại phong” trong sản xuất nông nghiệp; “Cờ Ba nhất” trong quân đội; “Tiếng trống Bắc Lý” trong giáo dục; “Thanh niên Ba sẵn sàng”; “Phụ nữ Ba đảm đang”…
Bước vào thời kỳ “đổi mới”, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh những thuận lợi, nước ta đang phải đối mặt nhiều khó khăn, đòi hỏi phải phát huy cao độ lòng yêu nước, tinh thần tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc trong mỗi người Việt Nam.
Ngày 4/3/2008 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 258/QĐ-TTg về việc lấy ngày 11/6 hàng năm là “Ngày Truyền thống thi đua yêu nước” nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân đối với công tác tổ chức, vận động và hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ mới. Với các phong trào thi đua rộng khắp, như: Tích cực đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức , phong cách Hồ Chí Minh”; “Phụ nữ giúp nhau xóa đói giảm nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới”… đã góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường hội nhập quốc tế.
70 năm qua, Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi còn nguyên ý nghĩa và giá trị thực tiễn, luôn là nguồn cổ vũ, động viên to lớn giúp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn để tiến hành thành công trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Tác giả: Trần Văn Lợi
Nguồn tin: Báo Thương hiệu và Pháp luật