Tiếp nối vua cha, sau khi lên ngôi năm 1820, vua Minh Mạng rất coi trọng việc chiêu hiền đãi sĩ cả văn lẫn võ để phục vụ triều đình, mở mang bờ cõi. Vua cho xây dựng Võ Miếu vào tháng 11/1835 tại An Ninh Thượng, nay là thôn An Bình (phường Hương Hồ, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên Huế) sát bên cạnh Văn Thánh Miếu để thờ các bậc danh tướng triều Nguyễn lập nhiều chiến công.
Sách Đại Nam thực lục ghi lại lời dụ của vua Minh Mạng: "Điều cốt yếu của trị nước là cả văn lẫn võ, không thể riêng bỏ bên nào. Đặt ra Võ Miếu là việc nên làm... Huống chi bản triều từ ngày khai quốc đến trung hưng, công liệt rực rỡ, không kém người xưa, đáng biểu dương để khuyến khích nhân tài".
Vua Minh Mạng chiêu hiền đãi sĩ những người giỏi giang về võ, dũng cảm, mưu lược. Năm 1837, khoa thi Hương võ và Hội võ lần đầu tiên được mở. Theo đó, triều đình quy định lấy các năm Dần, Tỵ, Thân, Hợi mở khoa thi Hương võ, các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu mở khoa thi Hội võ.
Trong khoa thi Hương võ, triều đình quy định người nào ba kỳ đầu trúng là cử nhân võ, dự trúng 2 kỳ là tú tài võ. Đối với cử nhân võ thì ngày xướng danh, phúc hạch, hỏi về 3-4 câu ở sách Võ kinh, Tứ tử, ai thông suốt thì được xếp ở hạng đầu bảng. Các cuộc thi Hương võ thường được triều đình tổ chức tại các trường thi võ ở Huế, Bình Định, Hà Nội, Thanh Hóa.
Theo Khâm định Đại nam hội điển sự lệ, trong kỳ thi Hội võ, các võ sinh phải trải qua 3 nội dung thi, người nào thi trúng cả ba lại kiêm thông chữ thì cho vào thi tại cung điện nhà vua. Tại đây, võ sinh nào có điểm số cao về binh pháp, văn lý sẽ đỗ tiến sĩ võ. Những võ sinh không được vào thi tại cung điện nhà vua liệt làm Phó bảng võ. Sau đó, các võ sinh thi đỗ sẽ được triều đình vinh danh, bổ nhiệm vào các chức quan võ.
Theo sách Đại Nam thực lục, thời vua Thiệu Trị năm 1846, triều Nguyễn đã mở khoa thi võ ở Kinh, những võ sinh vượt qua kỳ thi được thăng bổ quan chức và sung làm thị vệ, túc vệ, hành tẩu.
Cũng giống như các giám sinh đỗ tiến sĩ văn ban, các võ sinh đỗ tiến sĩ võ cũng được triều Nguyễn cho khắc tên vào võ bia thờ tự tại Võ Thánh Miếu để lưu danh thiên cổ với các danh xưng như Đệ nhất giáp tiến sĩ, Đệ nhị giáp tiến sĩ, Đệ tam giáp tiến sĩ.
Bên cạnh tổ chức các khoa thi võ, triều Nguyễn cũng tổ chức các trường luyện tập võ nghệ để tập hợp võ cử, võ sinh của các tỉnh. Sách Đại Nam thực lục ghi lại việc này như sau: “Chuẩn cho Bình Định và Hà Tĩnh đẩy mạnh thi cử võ và võ sinh (hơn 600) phân chia nuôi dưỡng luyện tập”.
Sau khi vua Tự Đức mất, triều Nguyễn có nhiều biến động, lập và phế vua liên tục nên việc thi tiến sĩ võ không được tổ chức. Các khoa thi trước đó nhà Nguyễn đã chọn ra được những bậc danh tướng giúp triều đình mở mang bờ cõi, dẹp giặc. Trong đó, có các danh tướng như Võ Văn Đức đỗ tiến sĩ võ năm 1865, Nguyễn Văn Vận, Phạm Học, Nguyễn Văn Tứ, Dương Viết Thiệu đỗ tiến sĩ võ ở khoa thi Mậu Thìn năm 1868. Tên tuổi các danh tướng này đều được khắc vào võ bia thờ tự ở Võ Thánh Miếu và vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay.
Hiện nay, tại Võ Thánh Miếu còn 5 tấm bia đá khắc tên các danh tướng có công khai quốc triều Nguyễn và tên các vị tiến sĩ võ, trong đó có 3 tấm bia được gọi là Võ Công bi ký, Võ công tả bi và Võ công hữu bi. Bia Võ Công bi ký được khắc lời dụ của vua Minh Mạng về việc tuyển chọn 10 vị võ tướng có công với triều Nguyễn khi khai quốc.
Tác giả bài viết: Võ Thạnh
Nguồn tin: