Giáo viên là lực lượng quan trọng trong đổi mới chương trình giáo dục phổ thông |
Hôm nay (20.1), hội nghị triển khai việc xây dựng và chuẩn bị các điều kiện để áp dụng chương trình, sách giáo khoa (SGK) mới sẽ được UBND TP.Hà Nội tổ chức đầu tiên trên cả nước, với sự tham gia của Bộ GD-ĐT.
Thiếu hàng nghìn giáo viên ngoại ngữ ở tiểu học
Để chuẩn bị các điều kiện áp dụng chương trình, SGK mới, Bộ GD-ĐT đã có báo cáo kết quả rà soát thực trạng điều kiện về đội ngũ giáo viên (GV) hiện nay và dự báo nhu cầu khi thực hiện chương trình mới.
Theo Bộ GD-ĐT, nhu cầu về GV các cấp để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới không có sự biến động nhiều so với số GV hiện có. Tuy nhiên, với một số môn mới đưa vào chương trình sẽ phải tuyển mới hoàn toàn, đặc biệt với môn ngoại ngữ đang thiếu nghiêm trọng ở cấp tiểu học. Hiện cả nước thiếu khoảng 5.616 GV tiếng Anh, 5.607 GV tin học ở tiểu học. Căn cứ vào lộ trình triển khai, bắt đầu từ năm học 2021 - 2022 đến năm học 2023 - 2024, mỗi năm sẽ phải tuyển bổ sung khoảng 2.000 GV tiếng Anh và 2.000 GV tin học. Đồng thời, rà soát để tuyển dụng số GV tiếng Anh, tin học đang còn trong diện hợp đồng lao động.
Đối với tiểu học, bình quân mỗi năm có 2% GV nghỉ hưu, tương đương với 7.940 GV. Như vậy, số được tuyển mới bổ sung hằng năm sẽ khoảng 3.970, cộng với mỗi năm tuyển mới khoảng 3.900, tăng quy mô, trung bình mỗi năm sẽ tuyển mới khoảng hơn 7.000.
“Các địa phương cần tính toán cụ thể số lượng GV cần tuyển theo nhu cầu từng năm, ưu tiên tuyển dụng GV tiểu học và tiếng Anh, tin học còn thiếu, hạn chế hoặc không tuyển các môn âm nhạc, mỹ thuật, thể dục, vì các môn học này GV tiểu học đã được đào tạo để dạy”, đại diện Bộ GD-ĐT khuyến cáo.
Tạm dừng tuyển mới giáo viên THCS?
Về GV cấp THCS, bình quân một năm có 2% nghỉ hưu, tương đương với 6.219 GV. Như vậy, số GV tuyển bổ sung thay thế nghỉ hưu là 3.110, cộng với số cần tuyển mới do tăng quy mô học sinh là 1.250. So với số GV THCS đang thừa là 9.246 (tính đến thời điểm tháng 11.2017) thì các địa phương cần tính toán cụ thể số lượng cần tuyển mới, trong đó ưu tiên tuyển cho những môn học còn thiếu.
Đại diện Bộ GD-ĐT cho rằng đối với các địa phương đang thừa GV, trong khoảng 3 năm học tới, có thể tạm dừng tuyển mới để giải quyết dứt điểm tình trạng thừa. Đồng thời rà soát, sắp xếp, điều tiết GV hợp lý giữa các trường trên cùng địa bàn để bảo đảm hợp lý về số lượng GV và cơ cấu môn học cho từng trường THCS theo số lượng hiện có.
Với môn tin học, chương trình hiện hành là môn tự chọn nhưng khi chuyển sang chương trình mới là bắt buộc. Bộ GD-ĐT đề nghị các địa phương cần rà soát để xác định GV đã được tuyển dụng (biên chế), GV hợp đồng để có phương án tuyển dụng ngay từ năm học 2018 - 2019.
Ở cấp THPT, số được tuyển mới bổ sung thay thế GV nghỉ hưu hằng năm sẽ khoảng 1.507, cộng với số cần tuyển mới do tăng quy mô học sinh là 2.250. Trên cơ sở số GV thừa khoảng 8.874 ở THPT khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, Bộ GD-ĐT đề nghị các địa phương cần tính toán nhu cầu tuyển mới GV THPT từ nay đến năm 2025 để vừa giải quyết bài toán thừa và nhu cầu tuyển bổ sung, trong đó ưu tiên tuyển 5.400 GV dạy môn nghệ thuật (2.700 âm nhạc, 2.700 mỹ thuật) để bắt đầu dạy từ năm 2021. Đây là môn học lần đầu tiên được đưa vào là môn học tự chọn ở cấp THPT.
50 chương trình đào tạo giáo viên
Theo kế hoạch của Bộ GD-ĐT, từ nay đến năm 2024, sẽ ban hành chuẩn, tiêu chuẩn GV, giảng viên và cán bộ quản lý; Ban hành các chương trình đào tạo, bồi dưỡng GV, cán bộ quản lý trường phổ thông thống nhất cả nước, trong đó có chương trình đào tạo GV dạy các môn học mới.
Bộ GD-ĐT sẽ giao các trường sư phạm trọng điểm, chủ chốt tiến hành nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung đào tạo để xây dựng mới 50 chương trình đào tạo thống nhất trong cả nước. Các cơ sở này cũng xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV đáp ứng yêu cầu và lộ trình đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông; phối hợp với địa phương xây dựng chương trình, tài liệu và tổ chức các khóa bồi dưỡng tập trung…
Cơ sở vật chất thiếu nhiều so với nhu cầu đổi mới Cả nước có 28.177 cơ sở giáo dục phổ thông công lập (15.050 trường tiểu học, 10.697 trường THCS, 2.430 trường THPT), 14.883.647 học sinh, 476.924 lớp học và 419.903 phòng học. Tuy nhiên, những điều kiện về phòng học bộ môn, trang thiết bị dạy học, thư viện còn thiếu nhiều so với nhu cầu. Chẳng hạn, về phòng học bộ môn, ở cấp THCS số phòng đáp ứng quy định là 20.573 phòng (đạt tỷ lệ 66,8%); cấp THPT đạt tỷ lệ 72,8%. Về thiết bị dạy học tối thiểu, hiện tỷ lệ đáp ứng yêu cầu tối thiểu ở cấp tiểu học là 56% (vùng miền núi phía bắc 49%, Tây nguyên 57%, Tây Nam bộ 51%); cấp THCS là 55% (vùng miền núi phía bắc 50%, Tây nguyên 70%, Tây Nam bộ 49%); cấp THPT là 58% (vùng miền núi phía bắc 52%, Tây nguyên 70%, Tây Nam bộ 45%). Số lượng thiết bị phòng học bộ môn mới chỉ đáp ứng được khoảng 68% nhu cầu giảng dạy. Về thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin, hiện trung bình tiểu học thì 2,1 trường mới có 1 phòng máy, tỷ lệ này ở cấp THCS là 1,3 trường, THPT là 1,9. Trong khi đó, để đáp ứng được nhu cầu giảng dạy tối thiểu, cấp tiểu học và THCS, mỗi trường cần ít nhất 1 phòng máy, cấp THPT là 2 phòng. Về thiết bị dạy học ngoại ngữ, hiện chủ yếu là những thiết bị cầm tay, đơn chiếc phục vụ cho việc giảng dạy của GV, các hệ thống dạy ngoại ngữ chuyên dùng còn ít. Diện tích xây dựng trung bình của thư viện cho 1 học sinh rất thấp (0,1 m2/0,6 m2 theo tiêu chuẩn thiết kế hiện hành). |
Tác giả: Tuệ Nguyễn
Nguồn tin: Báo Thanh Niên