Trong tỉnh

Đề án 1719 làm đổi thay vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi Thanh Hóa

Sau gần 4 năm triển khai Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 (gọi tắt là Đề án 1719), Thanh Hóa đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần làm thay đổi diện mạo vùng cao, thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng.

Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, chỉ còn 8,6% vào năm 2024 (giảm 6,73% so với năm 2023); thu nhập bình quân đầu người tăng từ 39,61 triệu đồng năm 2023 lên 44,39 triệu đồng năm 2024.

Đề án 1719 góp phần bảo tồn giá trị văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số.



Theo Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Thanh Hoá, để có được những kết quả trên, công tác lãnh đạo, chỉ đạo được triển khai đồng bộ, quyết liệt và bài bản. Các cấp ủy, chính quyền đã ban hành kịp thời hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý thống nhất cho việc thực hiện chương trình. Ban Chỉ đạo Chương trình được thành lập từ tỉnh đến xã, phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng thành viên, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện.

Bên cạnh đó, tỉnh Thanh Hoá cũng chú trọng lồng ghép các nguồn lực, kết hợp chỉ đạo, điều hành giữa các chương trình, dự án khác nhau; đồng thời thực hiện nghiêm túc cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá.

Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tập trung huy động nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời loại bỏ dần các tập tục lạc hậu, giúp người dân tiếp cận văn minh mới, hòa nhập với cộng đồng. Nhờ đó, đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi từng bước cải thiện rõ rệt.

Nhà ở, công trình dân sinh được đầu tư; trường học, trạm y tế, đường giao thông được xây dựng kiên cố. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, chỉ còn 8,6% vào năm 2024 (giảm 6,73% so với năm 2023); thu nhập bình quân đầu người tăng từ 39,61 triệu đồng năm 2023 lên 44,39 triệu đồng năm 2024.

Nhiều tuyến đường giao thông được đầu tư từ nguồn vốn đề án, kết nối hạ tầng giao thông miền núi.



Đặc biệt quá trình triển khai Chương trình luôn bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, xác định rõ mục tiêu hỗ trợ, lựa chọn công trình, dự án phù hợp với nguyện vọng của người dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội phát huy tốt vai trò giám sát, phản biện, góp phần tạo đồng thuận, khơi dậy sức mạnh toàn dân. Diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi Thanh Hóa đang từng ngày khởi sắc, bừng lên sức sống mới.

Chương trình đã góp phần rút ngắn khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng, nâng cao mức sống, thu nhập, giảm số xã, thôn đặc biệt khó khăn; quy hoạch, sắp xếp dân cư hợp lý; hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, liên vùng. Giáo dục, y tế, văn hóa có bước tiến rõ nét; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc thiểu số được nâng cao; bản sắc văn hóa tốt đẹp được giữ gìn, phong tục lạc hậu từng bước xóa bỏ.

Các chỉ tiêu đặt ra cơ bản đạt và vượt kế hoạch: 100% xã có đường ô tô đến trung tâm được rải nhựa hoặc bê tông, 100% thôn có đường đến trung tâm cứng hóa. 100% trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố; 100% hộ dân được sử dụng điện và nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 95%.

Tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số giảm trên 3% mỗi năm; trẻ em được đến trường đúng độ tuổi, tỷ lệ học sinh tiểu học và THCS đến lớp đạt trên 99%. 98% đồng bào dân tộc tham gia bảo hiểm y tế, phụ nữ mang thai được thăm khám định kỳ đạt 88,6%, sinh con tại cơ sở y tế đạt 99%. Đặc biệt, 100% thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng, trong đó 62% có đội văn hóa – văn nghệ hoạt động thường xuyên, góp phần duy trì, lan tỏa giá trị truyền thống.

Một số chỉ tiêu khó đạt nhưng vẫn được các địa phương nỗ lực phấn đấu hoàn thành trong năm 2025, như: thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn 10 xã, 159 thôn bản; nâng thu nhập bình quân khu vực miền núi đạt 66,2 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ học sinh THPT đến trường đạt gần 99%.

Đầu tư cho chăn nuôi, sản xuất, góp phần nâng cao đời sống người dân.



Bên cạnh kết quả tích cực, Sở Dân tộc và Tôn Giáo tỉnh Thanh Hoá cũng nhận thấy, quá trình thực hiện Chương trình vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, bất cập về cơ chế và nguồn lực. Trước hết, các văn bản hướng dẫn của Trung ương ban hành chậm, trong khi nội dung chương trình giai đoạn 2021 – 2025 có nhiều đổi mới về cơ chế, cách làm. Điều này khiến địa phương lúng túng trong triển khai, nhiều nội dung dù đã được bố trí vốn nhưng chưa thể khởi công.

Việc Chính phủ ban hành hai Nghị định (27/2022/NĐ-CP và 38/2023/NĐ-CP) trong thời gian ngắn gây chồng chéo, một số quy định chưa phù hợp thực tế. Chẳng hạn, yêu cầu địa phương phải ban hành nhiều quy định riêng (Điều 40) trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể; quy định về tỷ lệ dự án đầu tư theo cơ chế đặc thù cũng chưa được làm rõ, dẫn đến vướng mắc khi lập kế hoạch đầu tư công trung hạn. Ngoài ra, vốn đầu tư phát triển được giao muộn, ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Nghị quyết số 111/2024/QH15 của Quốc hội dù tạo cơ sở pháp lý mới nhưng vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết, dẫn đến khó áp dụng.

Đặc biệt, các Dự án thành phần trong Chương trình còn gặp những vướng mắc riêng: Dự án 1 – Giải quyết thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt: Mức hỗ trợ 40 triệu đồng/hộ cho đất ở là thấp; hỗ trợ nhà ở chỉ áp dụng cho hộ xây mới, không hỗ trợ hộ sửa chữa; quỹ đất sản xuất cạn kiệt, mức hỗ trợ 10 triệu đồng/hộ cho máy móc, nông cụ quá thấp so với thực tế.

Dự án 3 – Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững: Thông tư 55/2023/TT-BTC chưa quy định kinh phí cho công tác kiểm tra, nghiệm thu bảo vệ rừng; quy định về đối tượng thụ hưởng hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị chưa thống nhất, khiến việc giải ngân vốn chậm.

Dự án 5 – Phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao nguồn nhân lực: Chưa có tài liệu hướng dẫn dạy xóa mù chữ; định mức đầu tư trường học còn thấp, chưa tính các hạng mục phụ trợ như hành lang, cầu thang, PCCC. Trong khi đó, công tác bồi dưỡng kiến thức dân tộc, đào tạo dự bị đại học gặp khó do thiếu cơ sở đủ điều kiện theo quy định, ảnh hưởng đến hiệu quả đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số.

Dự án 7 – Chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể trạng: Quy định về đối tượng thực hiện không thống nhất giữa các văn bản, gây khó khăn cho địa phương khi lựa chọn đơn vị triển khai. Dự án 9 – Đầu tư phát triển kinh tế – xã hội các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn: Chưa có định mức hỗ trợ cụ thể, chưa xác định rõ hình thức hỗ trợ (trực tiếp hay qua vay ưu đãi), khiến các địa phương lúng túng khi áp dụng.

Nguyên nhân khách quan là do Chương trình có nội dung tích hợp phức tạp, liên quan nhiều lĩnh vực, nhiều bộ ngành cùng tham gia, trong khi hướng dẫn Trung ương ban hành chậm và chưa đồng bộ. Điều kiện tự nhiên miền núi Thanh Hóa lại khắc nghiệt, địa hình chia cắt, giao thông khó khăn, thường xuyên chịu thiên tai, khiến việc thi công công trình dân sinh, hạ tầng gặp nhiều trở ngại.

Về chủ quan, một số địa phương còn thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, còn trông chờ, ỷ lại; công tác chuẩn bị đầu tư chưa kỹ, dẫn đến chậm tiến độ giải ngân. Các dự án mới triển khai cần thời gian hoàn thiện thủ tục, trong khi thời gian giai đoạn 2021 – 2025 không còn nhiều.

Từ thực tế đó, Thanh Hóa rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng: phải gắn trách nhiệm người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện; phát huy vai trò cộng đồng, dân biết – dân bàn – dân làm – dân kiểm tra; ưu tiên nguồn lực đầu tư có trọng tâm, tránh dàn trải; lồng ghép hiệu quả với Chương trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững.

Đề án quan tâm xây dựng thiết chế văn hoá cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.


Để Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt kết quả bền vững, thực chất, Thanh Hóa kiến nghị:

Một là, đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành sớm có chính sách hỗ trợ phù hợp cho các xã, thôn đã thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn nhưng đời sống người dân vẫn còn nhiều thiếu thốn, đảm bảo họ tiếp tục được thụ hưởng chính sách an sinh như bảo hiểm y tế, giáo dục, mầm non, chính sách cán bộ vùng khó.

Hai là, cần tăng cường nguồn lực đầu tư, tập trung vào lĩnh vực trọng điểm, có sức lan tỏa cao như phát triển hạ tầng thiết yếu, hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, tạo việc làm cho người dân, giúp họ tự vươn lên thoát nghèo bền vững.

Ba là, đề nghị Bộ Dân tộc và Tôn giáo sớm xây dựng, trình Chính phủ phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 – 2030, bảo đảm tiêu chí phù hợp thực tế; ban hành tiêu chí xác định các dân tộc đặc biệt khó khăn để có chính sách hỗ trợ đúng đối tượng. Đồng thời, các chính sách dân tộc giai đoạn mới nên mở rộng phạm vi thụ hưởng, không chỉ tập trung vào vùng đặc biệt khó khăn mà bao phủ cả vùng có nguy cơ tái nghèo, nhằm tạo sự phát triển đồng đều, bền vững.

Bốn là, kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu sửa đổi Bộ tiêu chí nông thôn mới cho phù hợp điều kiện miền núi; tạo động lực để các xã vùng cao phấn đấu đạt chuẩn, nâng cao đời sống người dân, góp phần củng cố quốc phòng – an ninh, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ là chính sách mang tầm chiến lược mà còn là cam kết nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Tại Thanh Hóa, từ chủ trương đến hành động, từ những con đường mới mở, trường học kiên cố, nhà ở khang trang đến nụ cười người dân trên nương rẫy, tất cả đang minh chứng cho một sự chuyển mình mạnh mẽ. Dù vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, nhưng niềm tin và khát vọng vươn lên của đồng bào các dân tộc thiểu số đang trở thành nguồn nội lực quý báu, góp phần dựng xây quê hương Thanh Hóa ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Tác giả: Trần Thắng

Nguồn tin: cand.com.vn

  Từ khóa: thiểu số , Đề án , thanh hóa

BÀI MỚI ĐĂNG

TOP ok