Con đường nhỏ quanh co xuyên qua mấy cánh đồng, mấy ngôi làng mới dẫn đến chùa Nôm (xã Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên). Ngôi chùa nằm ngay đầu làng, chìm sau bức tường đá ong cao vòi vọi và những tán cây cổ thụ rợp bóng.
Bước qua chiếc cổng, không gian rộng lớn của chùa hiện ra. Một ngôi chùa hoành tráng, mới tinh, với những cột gỗ lim khổng lồ một người ôm không xuể.
Trên chiếc cầu đá mấy trăm năm tuổi, đám học sinh nữ thướt tha thả bóng soi mặt hồ chụp ảnh. Chiếc cầu đá của ngôi chùa này khá đặc biệt, đã tồn tại mấy trăm năm, vẫn nguyên vẹn và như mới tinh.
Anh bạn bảo, đây là chùa mới xây, chứ ngôi chùa Nôm cổ xưa thì bé lắm. Hóa ra, ngôi chùa Nôm cổ nằm ngay giữa khuôn viên ngôi chùa khổng lồ, dưới tán mấy cây cổ thụ.
Sư trụ trì Thích Đồng Huệ dừng tụng kinh chắp tay chào khách theo kiểu nhà Phật. Sư Huệ thân tình, cởi mở, giới thiệu qua về ngôi chùa Nôm để chúng tôi hiểu.
Thực tế, từ sân chùa chính vào chùa cổ chỉ là cổng phụ, lối sau chùa. Cổng chính ngôi chùa đã được xây kín lại. Toàn bộ khuôn viên chùa cổ đã lọt thỏm trong ngôi chùa chính được quy hoạch rộng cả chục ha, vô cùng hoành tráng.
Xuyên qua con đường nhỏ phía hông chùa, tôi thực sự choáng ngợp trước một vườn mộ tháp bằng đá ong lên màu vàng chóe. Những tháp đá tuyệt đẹp và nguyên vẹn. Dù chùa đã trải qua mấy lần đổ nát, trùng tu, song những tháp đã vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
Những pho tượng lạ
Sư Huệ không mở cửa chính, mà mở cửa phụ nhỏ xíu, chỉ lọt một người, kiểu cửa của chùa cổ, dẫn chúng tôi đi chiêm ngưỡng những tác phẩm vô cùng độc đáo của ngôi chùa, đó là những pho tượng đất.
Dọc hai bên hành lang là mái hiên ngói chạy dài. Tôi sững sờ trước hai dãy tượng sơn đủ các màu, với các trạng thái mô tả con đường hành Phật.
Lối nhỏ vào ngôi chùa cổ
Các pho tượng đất đều ngồi, đứng trên một giá đỡ bằng đất, có thể là một hòn giả sơn, hoặc đơn giản chỉ là cái bệ. Đủ các thế tượng đứng, ngồi, gầy, béo, hiền lành, dữ tợn, dân dã, thần tiên, tướng dữ…
Riêng mỗi hành lang cũng có đến ngót 20 pho tượng lớn nhỏ, với những chủ đề khác nhau. Tượng đất nằm ở khắp nơi trong ngôi chùa cổ này.
Phía sau hậu cung là một không gian hết sức đẹp mắt, huyền bí. Cả một dãy núi với những hang động, mái đá được làm bằng đất. Trong các hang động, các vách đá là những bức tượng đất mô tả các vị thánh đang ngồi tịnh tâm, tu luyện.
Các pho tượng mang khuôn mặt và hình dạng có sức biểu cảm cao, giống với các trạng thái cảm xúc của con người. Các vị thần cũng được mô tả như con người bình thường, nhưng rất thoát tục.
Theo sư Thích Đồng Huệ, từ trang phục đến trạng thái của các pho tượng cổ đều mang nét dân dã, thuần Việt. Điều này chứng tỏ trong con mắt của cha ông ta, Phật giáo rất gần gũi với đời sống con người, Phật giáo và đời sống như hòa làm một.
Những pho tượng đất
Tượng đất trong ngôi chùa cổ này có nhiều kích cỡ khác nhau. Có rất nhiều pho tượng nhỏ xíu, chỉ bằng nắm tay, trông như búp bê của trẻ con, song có những cặp tượng khổng lồ. Tổng cộng có 100 pho tượng bằng đất trong chùa Nôm.
Tôi thực sự bất ngờ trước những cặp tượng khổng lồ, cao đến 3m, uy nghi như những dũng tướng, thần sấm, thần sét đứng gác hai bên điện thờ. Khuôn mặt những vị tướng này thật gớm ghiếc, sinh động, trông y như người thật.
Phía dưới chân một pho tượng lộ ra một vết vỡ, nhìn vào thì nhận rõ chất liệu bằng đất sét. Thật không ngờ, những pho tượng khổng lồ làm bằng đất, chịu trọng lực lớn, mà vẫn tồn tại nguyên vẹn qua nhiều trăm năm.
Theo sư trụ trì Thích Đồng Huệ, hầu hết các ngôi chùa ở Việt Nam đều làm tượng bằng chất liệu gỗ hoặc đồng, bởi hai chất liệu này vừa dễ làm, lại đảm bảo độ bền.
Công đoạn làm tượng đất ở chùa Nôm đến nay vẫn chưa ai biết. Không có tài liệu nào để lại nói về phương pháp làm tượng.
Những pho tượng đất tuyệt đẹp
Tuy nhiên, theo sư Huệ, làm tượng đất thường có công thức chung. Nguyên liệu cơ bản gồm đất sét, vôi, mật, giấy bản. Những thứ này được trộn đều, giã đến khi nhuyễn thành một hợp chất dẻo quánh, thì mới sử dụng nặn tượng.
Tượng đất nặn xong thì được phủ một hoặc nhiều lớp sơn phết bên ngoài. Lớp sơn vừa có chức năng bảo vệ tượng vừa nâng cao giá trị thẩm mỹ.
Bí quyết trong các tài liệu lịch sử Phật giáo thì ghi như vậy, nhưng ngày nay không ai làm được tượng đất nữa. Vậy nên, hơn chục năm trước, ngôi chùa bị trộm khênh mất 2 pho tượng đất, nhà chùa phải làm 2 pho tượng gỗ khác để thay thế vào chỗ khuyết.
Cả ngàn năm trước, các nghệ nhân đã biết sử dụng chất liệu đất để làm tượng, nhưng tượng đất thường không bền, nên càng về sau, tượng đất càng ít được dùng.
Hiện tại, ở miền Bắc chỉ thấy chùa Dâu (Bắc Ninh) là ngôi chùa rất cổ, có một số pho tượng bằng đất. Ở miền Nam thì có chùa Đất Sét (Sóc Trăng) được làm toàn bộ bằng chất liệu đất sét.
Tuy nhiên, chùa Đất Sét ở Sóc Trăng, dù được làm toàn bộ bằng đất sét, nhưng ngôi chùa này lại có rất ít tượng. Duy nhất chỉ có chùa Nôm còn tồn tại đến 100 pho tượng bằng đất.
Pho tượng đất khổng lồ
Tượng đất và các trận “đại hồng thủy”
Điều đáng ngạc nhiên không phải là số lượng tượng đất, mà là độ bền không tưởng tượng nổi của những pho tượng đất này.
Trải qua nhiều trăm năm, cũng có thể là hàng ngàn năm, những pho tượng này vẫn còn rất nguyên vẹn, chưa phải tu sửa gì. Ngay cả lớp sơn ta phủ bên ngoài cũng vẫn là nguyên bản từ xưa.
Tôi quan sát cặn kẽ từng pho tượng trong chùa Nôm và chỉ thấy có 3 pho tượng bị ảnh hưởng một chút. Một pho vỡ một mảnh ở bắp tay, một pho cụt tay và một pho vỡ một mảnh nhỏ ở phần chân.
Điều lạ lùng hơn nữa, là 100 pho tượng đất của chùa Nôm đã phải hứng chịu nhiều trận ngập lụt khủng khiếp mà vẫn an toàn.
Ông Đồng Văn Thân cho biết, trận lụt năm 1945 do vỡ đê sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Đuống đã nhấn chìm toàn bộ ngôi làng này cùng cả miền Bắc, nước ngập đến nóc Linh Thông cổ tự (tên chùa Nôm ngày xưa).
Anh Đồng Văn Thân cho biết, nhiều lần những pho tượng bằng đất này chìm trong nước, nhưng vẫn không tan rã
Trận đại hồng thủy đó đã làm lở tường, trôi cả mái chùa. Không ai tin những pho tượng đất sẽ còn tồn tại sau cả tháng bị ngâm trong nước phù sa đỏ au.
Thế nhưng, không ai ngờ, sau khi nước rút đi, ngôi chùa đổ vỡ loang lổ, nhưng những pho tượng đất thì vẫn nguyên vẹn. Người dân, thầy chùa múc nước dội lên các pho tượng, lớp bùn trôi đi, các pho tượng đất lại hiện ra lớp sơn sáng bóng như mới.
Tiếp đó là năm 1971, trận lụt lớn nhất thế kỷ 20, rồi trận lụt năm 1986 cũng nhấn chìm toàn bộ miền Bắc, trong đó có làng Nôm. Các pho tượng đất trong chùa Nôm tiếp tục trải qua vài lần bị ngâm trong nước suốt nhiều ngày, nhưng vẫn an toàn, nguyên vẹn trước sự ngỡ ngàng của người dân làng Nôm.
Trải qua hàng chục trận lụt trong lịch sử, các pho tượng đất chìm trong nước nhiều lần, nhưng điều kỳ lạ là các pho tượng này không tan rã thành bùn. Đây là điều mà nhiều nhà nghiên cứu vẫn chưa lý giải được.
Vết vỡ ở một tay tượng lộ ra chất liệu đất
Năm 1998 sư Thích Đồng Huệ về trụ trì, chùa Nôm dột nát lắm. Mỗi trận mưa lớn, nước trút lên đầu các pho tượng, sư Huệ lấy áo mưa mặc cho tượng cũng không tránh khỏi ướt. Thế nhưng, toàn bộ số tượng đất vẫn không bị ảnh hưởng bởi mưa gió.
Theo sư Huệ, lịch sử những pho tượng đất này còn bí ẩn hơn cả ngôi chùa Nôm. Quá trình tu sửa chùa Nôm còn được nhắc đến trong một số văn bia, nhưng các pho tượng đất thì tuyệt nhiên không được nhắc đến và cũng không ai biết rõ.
Cho đến lúc này, các nhà khoa học cũng không biết được những pho tượng này đã tồn tại bao nhiêu năm. Người thì bảo vài trăm năm, người thì khẳng định đã cả ngàn năm.
Các cụ già thì bảo rằng, cha ông, tổ tiên nhiều đời của họ cũng không biết tượng đất có từ khi nào, chỉ biết đời nọ nối tiếp đời kia ra sức bảo vệ những pho tượng quý này.
Một số nhà khoa học cho rằng, những pho tượng như Tam thanh, tam thế, A Di đà, Phật bà, Đức ông, Đức thánh hiền, Bát bộ kim cương, Thập điện... thì khó có thể biết được tạo tác từ khi nào, bởi những pho tượng này mang truyền thống của chùa chiền xứ Bắc. Tuy nhiên, các pho tượng Thập bát La Hán ở hai dãy hành lang chùa thì là những pho tượng tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc tượng thế kỉ 10-13.
Như vậy, có thể những pho tượng đất ở chùa Nôm này được các nghệ nhân tạo tác từ thời Lý – Trần, đã trên dưới 1.000 năm. Nếu thực sự những pho tượng này có tuổi đời như thế, thì đây là những di sản còn nguyên vẹn và quý hiếm không thể tưởng tượng nổi. Với thời gian như thế, tượng đá cũng đã mòn, đổ vỡ, chứ nói gì tượng đất.
Ngoài 100 pho tượng đất, thì chùa Nôm còn lưu giữ một tòa tượng cực quý bằng chất liệu đồng, được phủ một lớp vàng bên ngoài. Tòa tượng có tên Cửu Long Phật đản.
Tòa tượng mô tả câu chuyện cuộc đời tu hành của đức Phật tổ Như Lai. 9 con rồng bao quanh cậu bé, là Phật tổ khi còn nhỏ. Trên lưng mỗi con rồng là hình người tượng trưng cho giai đoạn cuộc đời của đức Phật.
Cũng không ai rõ tòa tượng này có từ đời nào, chỉ biết pho tượng rất cổ. Trước đây, khi chùa đổ nát, tượng được cất giữ, bảo quản cẩn mật trong nhà dân. Đã năm lần bảy lượt trộm viếng thăm, nhưng tòa tượng vẫn an toàn. Bây giờ, chùa được xây dựng vững chãi, song các sư sãi vẫn phải thay nhau trông nom.
Chùa Nôm có từ thời Hai Bà Trưng?
Về cứ liệu lịch sử, thì chùa Nôm có tuổi đời ít nhất cũng 500 năm. Trong 2 tấm bia đá lớn đặt sau hậu cung có từ thời Hậu Lê ghi rõ: Đời Chính Hòa, năm Canh Thân (1680), sau khi lên ngôi, nhà vua cho xây dựng lại chùa.
Vào các năm Nhâm Thân (1692), Giáp Tuất (1694), Đinh Sửu (1697), Mậu Dần (1698), Kỷ Mão (1699) tiếp tục tu sửa lại tiền đường, hậu cung và hành lang.
Năm Chính Hòa thứ 21 (1700) chùa được sửa lại các cột trụ, mở rộng sân chùa. Năm Cảnh Thịnh thứ 4 (1796) chùa xây thêm gác chuông và mở rộng hai dãy hàng lang.
Thời nhà Nguyễn, đời vua Thành Thái năm thứ 11 (1899) chùa Nôm lại được trùng tu thêm một lần nữa.
100 năm sau lần trùng tu này, qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử cũng như sự phá hủy của thiên nhiên bão tố, chùa bị xuống cấp nghiêm trọng.
Năm 1998, đại đức Thích Đồng Huệ về trụ trì tại chùa và từ đó đến nay, ngài cùng nhân dân trùng tu, xây dựng lại khang trang ngôi chùa này.
Theo truyền thuyết, chùa Nôm có từ thời Hai Bà Trưng. Chuyện rằng, một sư thầy đang ngủ ở chùa Dâu, bỗng tỉnh giấc, rồi thấy hào quang sáng rực ở phía Nam. Ngài cứ đi theo và thấy hào quang phát ra từ rừng thông.
Nghĩ rằng, Phật đã chỉ đất lành, nên ngài dựng một ngôi chùa tại rừng thông đó và lấy tên là Linh Thông cổ tự. Đây cũng chính là tên cổ của chùa Nôm.
Chùa Nôm giờ được xây dựng khang trang, thu hút hàng vạn du khách thăm viếng mỗi năm. Tuy nhiên, ít du khách nào biết rằng, những pho tượng tuyệt đẹp trong ngôi chùa nhỏ bé, cổ kính dưới tán những cây cổ thụ kia được làm bởi chất liệu bằng đất.
Bước qua chiếc cổng, không gian rộng lớn của chùa hiện ra. Một ngôi chùa hoành tráng, mới tinh, với những cột gỗ lim khổng lồ một người ôm không xuể.
Trên chiếc cầu đá mấy trăm năm tuổi, đám học sinh nữ thướt tha thả bóng soi mặt hồ chụp ảnh. Chiếc cầu đá của ngôi chùa này khá đặc biệt, đã tồn tại mấy trăm năm, vẫn nguyên vẹn và như mới tinh.
Anh bạn bảo, đây là chùa mới xây, chứ ngôi chùa Nôm cổ xưa thì bé lắm. Hóa ra, ngôi chùa Nôm cổ nằm ngay giữa khuôn viên ngôi chùa khổng lồ, dưới tán mấy cây cổ thụ.
Sư trụ trì Thích Đồng Huệ dừng tụng kinh chắp tay chào khách theo kiểu nhà Phật. Sư Huệ thân tình, cởi mở, giới thiệu qua về ngôi chùa Nôm để chúng tôi hiểu.
Thực tế, từ sân chùa chính vào chùa cổ chỉ là cổng phụ, lối sau chùa. Cổng chính ngôi chùa đã được xây kín lại. Toàn bộ khuôn viên chùa cổ đã lọt thỏm trong ngôi chùa chính được quy hoạch rộng cả chục ha, vô cùng hoành tráng.
Xuyên qua con đường nhỏ phía hông chùa, tôi thực sự choáng ngợp trước một vườn mộ tháp bằng đá ong lên màu vàng chóe. Những tháp đá tuyệt đẹp và nguyên vẹn. Dù chùa đã trải qua mấy lần đổ nát, trùng tu, song những tháp đã vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
Những pho tượng lạ
Sư Huệ không mở cửa chính, mà mở cửa phụ nhỏ xíu, chỉ lọt một người, kiểu cửa của chùa cổ, dẫn chúng tôi đi chiêm ngưỡng những tác phẩm vô cùng độc đáo của ngôi chùa, đó là những pho tượng đất.
Dọc hai bên hành lang là mái hiên ngói chạy dài. Tôi sững sờ trước hai dãy tượng sơn đủ các màu, với các trạng thái mô tả con đường hành Phật.
Lối nhỏ vào ngôi chùa cổ
Các pho tượng đất đều ngồi, đứng trên một giá đỡ bằng đất, có thể là một hòn giả sơn, hoặc đơn giản chỉ là cái bệ. Đủ các thế tượng đứng, ngồi, gầy, béo, hiền lành, dữ tợn, dân dã, thần tiên, tướng dữ…
Riêng mỗi hành lang cũng có đến ngót 20 pho tượng lớn nhỏ, với những chủ đề khác nhau. Tượng đất nằm ở khắp nơi trong ngôi chùa cổ này.
Phía sau hậu cung là một không gian hết sức đẹp mắt, huyền bí. Cả một dãy núi với những hang động, mái đá được làm bằng đất. Trong các hang động, các vách đá là những bức tượng đất mô tả các vị thánh đang ngồi tịnh tâm, tu luyện.
Các pho tượng mang khuôn mặt và hình dạng có sức biểu cảm cao, giống với các trạng thái cảm xúc của con người. Các vị thần cũng được mô tả như con người bình thường, nhưng rất thoát tục.
Theo sư Thích Đồng Huệ, từ trang phục đến trạng thái của các pho tượng cổ đều mang nét dân dã, thuần Việt. Điều này chứng tỏ trong con mắt của cha ông ta, Phật giáo rất gần gũi với đời sống con người, Phật giáo và đời sống như hòa làm một.
Những pho tượng đất
Tượng đất trong ngôi chùa cổ này có nhiều kích cỡ khác nhau. Có rất nhiều pho tượng nhỏ xíu, chỉ bằng nắm tay, trông như búp bê của trẻ con, song có những cặp tượng khổng lồ. Tổng cộng có 100 pho tượng bằng đất trong chùa Nôm.
Tôi thực sự bất ngờ trước những cặp tượng khổng lồ, cao đến 3m, uy nghi như những dũng tướng, thần sấm, thần sét đứng gác hai bên điện thờ. Khuôn mặt những vị tướng này thật gớm ghiếc, sinh động, trông y như người thật.
Phía dưới chân một pho tượng lộ ra một vết vỡ, nhìn vào thì nhận rõ chất liệu bằng đất sét. Thật không ngờ, những pho tượng khổng lồ làm bằng đất, chịu trọng lực lớn, mà vẫn tồn tại nguyên vẹn qua nhiều trăm năm.
Theo sư trụ trì Thích Đồng Huệ, hầu hết các ngôi chùa ở Việt Nam đều làm tượng bằng chất liệu gỗ hoặc đồng, bởi hai chất liệu này vừa dễ làm, lại đảm bảo độ bền.
Công đoạn làm tượng đất ở chùa Nôm đến nay vẫn chưa ai biết. Không có tài liệu nào để lại nói về phương pháp làm tượng.
Những pho tượng đất tuyệt đẹp
Tuy nhiên, theo sư Huệ, làm tượng đất thường có công thức chung. Nguyên liệu cơ bản gồm đất sét, vôi, mật, giấy bản. Những thứ này được trộn đều, giã đến khi nhuyễn thành một hợp chất dẻo quánh, thì mới sử dụng nặn tượng.
Tượng đất nặn xong thì được phủ một hoặc nhiều lớp sơn phết bên ngoài. Lớp sơn vừa có chức năng bảo vệ tượng vừa nâng cao giá trị thẩm mỹ.
Bí quyết trong các tài liệu lịch sử Phật giáo thì ghi như vậy, nhưng ngày nay không ai làm được tượng đất nữa. Vậy nên, hơn chục năm trước, ngôi chùa bị trộm khênh mất 2 pho tượng đất, nhà chùa phải làm 2 pho tượng gỗ khác để thay thế vào chỗ khuyết.
Cả ngàn năm trước, các nghệ nhân đã biết sử dụng chất liệu đất để làm tượng, nhưng tượng đất thường không bền, nên càng về sau, tượng đất càng ít được dùng.
Hiện tại, ở miền Bắc chỉ thấy chùa Dâu (Bắc Ninh) là ngôi chùa rất cổ, có một số pho tượng bằng đất. Ở miền Nam thì có chùa Đất Sét (Sóc Trăng) được làm toàn bộ bằng chất liệu đất sét.
Tuy nhiên, chùa Đất Sét ở Sóc Trăng, dù được làm toàn bộ bằng đất sét, nhưng ngôi chùa này lại có rất ít tượng. Duy nhất chỉ có chùa Nôm còn tồn tại đến 100 pho tượng bằng đất.
Pho tượng đất khổng lồ
Tượng đất và các trận “đại hồng thủy”
Điều đáng ngạc nhiên không phải là số lượng tượng đất, mà là độ bền không tưởng tượng nổi của những pho tượng đất này.
Trải qua nhiều trăm năm, cũng có thể là hàng ngàn năm, những pho tượng này vẫn còn rất nguyên vẹn, chưa phải tu sửa gì. Ngay cả lớp sơn ta phủ bên ngoài cũng vẫn là nguyên bản từ xưa.
Tôi quan sát cặn kẽ từng pho tượng trong chùa Nôm và chỉ thấy có 3 pho tượng bị ảnh hưởng một chút. Một pho vỡ một mảnh ở bắp tay, một pho cụt tay và một pho vỡ một mảnh nhỏ ở phần chân.
Điều lạ lùng hơn nữa, là 100 pho tượng đất của chùa Nôm đã phải hứng chịu nhiều trận ngập lụt khủng khiếp mà vẫn an toàn.
Ông Đồng Văn Thân cho biết, trận lụt năm 1945 do vỡ đê sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Đuống đã nhấn chìm toàn bộ ngôi làng này cùng cả miền Bắc, nước ngập đến nóc Linh Thông cổ tự (tên chùa Nôm ngày xưa).
Anh Đồng Văn Thân cho biết, nhiều lần những pho tượng bằng đất này chìm trong nước, nhưng vẫn không tan rã
Trận đại hồng thủy đó đã làm lở tường, trôi cả mái chùa. Không ai tin những pho tượng đất sẽ còn tồn tại sau cả tháng bị ngâm trong nước phù sa đỏ au.
Thế nhưng, không ai ngờ, sau khi nước rút đi, ngôi chùa đổ vỡ loang lổ, nhưng những pho tượng đất thì vẫn nguyên vẹn. Người dân, thầy chùa múc nước dội lên các pho tượng, lớp bùn trôi đi, các pho tượng đất lại hiện ra lớp sơn sáng bóng như mới.
Tiếp đó là năm 1971, trận lụt lớn nhất thế kỷ 20, rồi trận lụt năm 1986 cũng nhấn chìm toàn bộ miền Bắc, trong đó có làng Nôm. Các pho tượng đất trong chùa Nôm tiếp tục trải qua vài lần bị ngâm trong nước suốt nhiều ngày, nhưng vẫn an toàn, nguyên vẹn trước sự ngỡ ngàng của người dân làng Nôm.
Trải qua hàng chục trận lụt trong lịch sử, các pho tượng đất chìm trong nước nhiều lần, nhưng điều kỳ lạ là các pho tượng này không tan rã thành bùn. Đây là điều mà nhiều nhà nghiên cứu vẫn chưa lý giải được.
Vết vỡ ở một tay tượng lộ ra chất liệu đất
Năm 1998 sư Thích Đồng Huệ về trụ trì, chùa Nôm dột nát lắm. Mỗi trận mưa lớn, nước trút lên đầu các pho tượng, sư Huệ lấy áo mưa mặc cho tượng cũng không tránh khỏi ướt. Thế nhưng, toàn bộ số tượng đất vẫn không bị ảnh hưởng bởi mưa gió.
Theo sư Huệ, lịch sử những pho tượng đất này còn bí ẩn hơn cả ngôi chùa Nôm. Quá trình tu sửa chùa Nôm còn được nhắc đến trong một số văn bia, nhưng các pho tượng đất thì tuyệt nhiên không được nhắc đến và cũng không ai biết rõ.
Cho đến lúc này, các nhà khoa học cũng không biết được những pho tượng này đã tồn tại bao nhiêu năm. Người thì bảo vài trăm năm, người thì khẳng định đã cả ngàn năm.
Các cụ già thì bảo rằng, cha ông, tổ tiên nhiều đời của họ cũng không biết tượng đất có từ khi nào, chỉ biết đời nọ nối tiếp đời kia ra sức bảo vệ những pho tượng quý này.
Một số nhà khoa học cho rằng, những pho tượng như Tam thanh, tam thế, A Di đà, Phật bà, Đức ông, Đức thánh hiền, Bát bộ kim cương, Thập điện... thì khó có thể biết được tạo tác từ khi nào, bởi những pho tượng này mang truyền thống của chùa chiền xứ Bắc. Tuy nhiên, các pho tượng Thập bát La Hán ở hai dãy hành lang chùa thì là những pho tượng tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc tượng thế kỉ 10-13.
Như vậy, có thể những pho tượng đất ở chùa Nôm này được các nghệ nhân tạo tác từ thời Lý – Trần, đã trên dưới 1.000 năm. Nếu thực sự những pho tượng này có tuổi đời như thế, thì đây là những di sản còn nguyên vẹn và quý hiếm không thể tưởng tượng nổi. Với thời gian như thế, tượng đá cũng đã mòn, đổ vỡ, chứ nói gì tượng đất.
Ngoài 100 pho tượng đất, thì chùa Nôm còn lưu giữ một tòa tượng cực quý bằng chất liệu đồng, được phủ một lớp vàng bên ngoài. Tòa tượng có tên Cửu Long Phật đản.
Tòa tượng mô tả câu chuyện cuộc đời tu hành của đức Phật tổ Như Lai. 9 con rồng bao quanh cậu bé, là Phật tổ khi còn nhỏ. Trên lưng mỗi con rồng là hình người tượng trưng cho giai đoạn cuộc đời của đức Phật.
Cũng không ai rõ tòa tượng này có từ đời nào, chỉ biết pho tượng rất cổ. Trước đây, khi chùa đổ nát, tượng được cất giữ, bảo quản cẩn mật trong nhà dân. Đã năm lần bảy lượt trộm viếng thăm, nhưng tòa tượng vẫn an toàn. Bây giờ, chùa được xây dựng vững chãi, song các sư sãi vẫn phải thay nhau trông nom.
Chùa Nôm có từ thời Hai Bà Trưng?
Về cứ liệu lịch sử, thì chùa Nôm có tuổi đời ít nhất cũng 500 năm. Trong 2 tấm bia đá lớn đặt sau hậu cung có từ thời Hậu Lê ghi rõ: Đời Chính Hòa, năm Canh Thân (1680), sau khi lên ngôi, nhà vua cho xây dựng lại chùa.
Vào các năm Nhâm Thân (1692), Giáp Tuất (1694), Đinh Sửu (1697), Mậu Dần (1698), Kỷ Mão (1699) tiếp tục tu sửa lại tiền đường, hậu cung và hành lang.
Năm Chính Hòa thứ 21 (1700) chùa được sửa lại các cột trụ, mở rộng sân chùa. Năm Cảnh Thịnh thứ 4 (1796) chùa xây thêm gác chuông và mở rộng hai dãy hàng lang.
Thời nhà Nguyễn, đời vua Thành Thái năm thứ 11 (1899) chùa Nôm lại được trùng tu thêm một lần nữa.
100 năm sau lần trùng tu này, qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử cũng như sự phá hủy của thiên nhiên bão tố, chùa bị xuống cấp nghiêm trọng.
Năm 1998, đại đức Thích Đồng Huệ về trụ trì tại chùa và từ đó đến nay, ngài cùng nhân dân trùng tu, xây dựng lại khang trang ngôi chùa này.
Theo truyền thuyết, chùa Nôm có từ thời Hai Bà Trưng. Chuyện rằng, một sư thầy đang ngủ ở chùa Dâu, bỗng tỉnh giấc, rồi thấy hào quang sáng rực ở phía Nam. Ngài cứ đi theo và thấy hào quang phát ra từ rừng thông.
Nghĩ rằng, Phật đã chỉ đất lành, nên ngài dựng một ngôi chùa tại rừng thông đó và lấy tên là Linh Thông cổ tự. Đây cũng chính là tên cổ của chùa Nôm.
Chùa Nôm giờ được xây dựng khang trang, thu hút hàng vạn du khách thăm viếng mỗi năm. Tuy nhiên, ít du khách nào biết rằng, những pho tượng tuyệt đẹp trong ngôi chùa nhỏ bé, cổ kính dưới tán những cây cổ thụ kia được làm bởi chất liệu bằng đất.
Tác giả bài viết: Bình Hòa
Nguồn tin: